Cũng như ăn và uống, người ta cũng cần phải ngủ để duy trì cuộc sống. Trong thời gian ngủ, cơ thể nghỉ ngơi giảm nhịp độ làm việc và tự tu bổ, phục hồi chức năng. Ngủ đủ thời gian làm cho cơ thể sảng khoái, tinh thần minh mẫn, sáng suốt trong quyết định. Ngược lại thiếu ngủ gây ra mệt mỏi, nhầm lẫn, thiếu sáng suốt, trí nhớ kém và giảm đề kháng.
Người ta dành 1/3 thời gian sống chỉ để ngủ, tức là bình quân từ trẻ sơ sinh đến cụ già cận tử mỗi ngày cần 8 giờ để ngủ. 8 giờ mỗi ngày cũng là thời gian cần thiết để ngủ của một người trưởng thành. Ngủ đầy đủ 8 giờ để phục vụ cho việc hoạt động của 16 giờ còn lại, trong đó có làm việc, vui chơi.
Đối với trẻ, thời gian ngủ là thời gian giải phóng hormone cho sự tăng trưởng, trẻ lớn lên trong lúc ngủ. Trẻ sơ sinh ngủ hầu như suốt ngày khoảng 16-18 giờ mỗi ngày. Trẻ càng lớn thời gian ngủ giảm dần. Trẻ 5 tuổi ngủ khoảng 11 giờ sau đó nhu cầu ngủ giảm dần đến 9 giờ mỗi ngày, gần như người lớn. Nhân tố điều khiển giấc ngủ nói riêng và nhịp sinh học của cơ thể nói chung là nội tiết tố Melatonin. Đối với người lớn, nồng độ melatonin tăng lên vào khoảng 10 giờ tối gây ra buồn ngủ. Thói quen thức khuya làm việc tiết ra melatonin muộn hơn.
Đến tuổi đi học, nhu cầu ngủ của trẻ giảm dần. Đến tuổi dậy thì, do nhu cầu tăng trưởng thể chất nhiều hơn so với trẻ em và người lớn`, nhu cầu ngủ lại tăng lên từ 9 đến 10 giờ mỗi ngày. Nhu cầu ngủ sẽ trở lại ổn định khi chấm dứt tuổi dậy thì, với 19 tuổi ở nữ và 21 tuổi ở nam. Được ngủ đủ giấc, trẻ sẽ có thể chất khỏe mạnh, sáng suốt để tiếp thu. Ngược lại, trẻ thiếu ngủ gây mất tập trung trong học tập, chứng béo phì hay trầm cảm.
Đồng thời với lứa tuổi, dung lượng kiến thức cần phải học tăng lên, trẻ cần thời gian nhiều hơn cho việc học. Trên thực tế lứa tuổi này phải thức khuya để học bài và thức dậy sớm để đi học. Kết quả của sự thiếu ngủ là trẻ lơ mơ khi tiếp thu bài giảng. Để chống lại cơn buồn ngủ, trẻ hay có những hành vi quá khích, quậy phá. Một số khác lại có biểu hiện trầm cảm học hành sa sút. Khảo sát chỉ số giảm khoảng 7 điểm so với trước. Trong môi trường xấu, trẻ có thể bị nghiện ma túy.
Sự biến động hormone ở tuổi vị thành niên gây ra những biến đổi như trẻ không ngủ sớm được hoặc không thích ngủ sớm. Lứa tuổi này thường mất vài giờ trước khi ngủ vào chơi game, lướt web, đọc truyện hay xem TV. Do đó mà các bé thường ngủ sau 12 giờ đêm và chỉ ngủ được 4 đến 6 giờ. Nên trước mắt cần tránh xem TV muộn; lên giường đi ngủ theo một thời biểu nhất định; cố gắng ngủ được ít nhất 9 giờ mỗi đêm.
Những biện pháp khắc phục
1. Nhấn mạnh tầm quan trọng của giấc ngủ đúng giờ
2. Giúp trẻ học cách nghỉ ngơi thư giãn và chuẩn bị những tín hiệu thông báo cho cơ thể biết đã đến giờ đi ngủ. Đặt mọi lo lắng sang một bên để giấc ngủ mau đến.
3. Đưa các thiết bị điện tử, kể cả điện thoại di động ra khỏi phòng ngủ ít nhất 1 giờ trước khi ngủ.
4. Không uống những thức uống có chất kích thích vào buổi chiều hoặc buổi tối.
5. Khuyến khích tập luyện đều đặn, đặc biệt là tập ngoài trời vào buổi sáng. Ánh sáng mặt trời giúp thiết lập lại nhịp sinh học của cơ thể.
6. Ngày cuối tuần không ngủ nướng quá 2 giờ so với ngày trong tuần.
7. Tự tạo khung cảnh bình minh như mở đèn hay mở cửa sổ trước khi dậy.
Nguồn tham khảo:
Teens and Sleep
Teenagers and Sleep
How much sleep do I need?
Teenagers school Workshops
Saturday, June 25, 2011
Friday, June 24, 2011
Giai cấp công nhân không có người lãnh đạo
Theo lý luận của CN Mác Lê, giai cấp công nhân là tiên phong, đóng vai trò lãnh đạo nhân dân làm cách mạng đưa đất nước và nhân loại tiến lên CNCS làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Vai trò của Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh công nông và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của đảng.
Ta cùng đưa Giai cấp công nhân Việt Nam trở lại mặt đất bằng con số sau:
Với số lượng chỉ chiếm 21% tổng số lao động xã hội, 11% dân số, nhưng giai cấp công nhân đã đóng góp hơn 60% tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% ngân sách nhà nước.
Nguồn: Bản tin Quốc hội
Nhưng đời sống thực tế của giai cấp công nhân thế nào
Thu nhập rất thấp, không đủ tái sản xuất sức lao động
Nguồn: Báo Hà Nội Mới - Công nhân lương rất thấp
Khu công nghiệp không có nhà trẻ, trường mầm non, không có trạm y tế
Nguồn: Không có ngay cả ở khu công nghiệp Biên Hòa danh tiếng
Phải gửi con ở những nhà trẻ xập xệ, không an toàn
Lãnh đạo hứa lèo tuy chấp nhận thực tế rằng nhiều nữ công nhân không dám lập gia đình vì thu nhập không đủ nuôi con.
Nguồn: Công đoàn hứa chăm lo
Và cuối cùng, cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa công nhân với giới chủ
Dùng ô tô tàn sát công nhân đình công
Được biết Công ty TNHH Vật liệu đặc biệt Giai Đức là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài do người Trung Quốc làm chủ. Giám đốc là Vương Nghĩa Đức, quốc tịch Trung Quốc.
Thursday, June 23, 2011
Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975 (Kết)
Nguyễn Văn Lục
Bài trước giới thiệu cho độc giả về phương thức Khảo thí mộc mạc đơn sơ của 4 kỳ thi Tú tài trong hoàn cảnh thời chiến. Là con người không tránh khỏi những sai lầm và đã xảy ra những vụ bê bối. Xin giới thiệu phần cuối trong bài bài biên khảo của tác giả Nguyễn Văn Lục về chế độ thi cử trước 1975.
Xem phần I ở đây
Xem phần II ở đây
Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam
Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra để chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời Đệ Nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường ‒ do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền ‒ Và chuyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.
– Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.
– Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Petrus Trương Vĩnh Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả về sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.
Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.
Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết.” Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như rụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?
Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra ‒ thời nào cũng có- và điều đó không có gì lạ.
Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phêrô lừng lững vào Thiên Đàng?
Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết:
“Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bác Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn.
(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)
Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.
(Hết)
Phụ lục: Tú tài I và Tú tài II
Danh từ Tú tài I và Tú tài II lần đầu tiên được dùng ở Việt Nam vào thời Pháp thuộc. Tháng Tám năm 1928 Nha học chính Đông Dương mở kỳ thi Tú tài I đầu tiên. Sang năm sau vào Tháng Chín 1929 thì tổ chức kỳ thi Tú tài II. Lúc bấy giờ bằng Tú tài I và II lấy mẫu từ bằng Baccalauréat Première Partie và Deuxième Partie của Pháp, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ trong trường học. Năm 1945 vua Bảo Đại ra đạo dụ dùng chữ Quốc ngữ trong kỳ thi Tú tài nhưng phải đợi đến thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam tiếng Việt mới được đưa vào làm ngôn ngữ chính.
Khi đất nước Việt Nam chia đôi thành Việt Nam Cộng hòa ở phía nam vĩ tuyến 17 và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía bắc thì danh từ Tú tài bị bỏ hẳn ở ngoài Bắc, thay vào đó là tên "bằng tốt nghiệp cấp III". Ở Miền Nam thì tiếp tục dùng Tú tài I và II là hai đợt thi tuyển quan trọng ở bậc trung học.
Học sinh sắp xong lớp 11 phải thi Tú tài I (còn gọi là Tú tài bán phần) để lên lớp 12. Kỳ thi Tú tài I có phần viết và phần vấn đáp. Phần vấn đáp bị loại bỏ năm 1968. Văn bằng Tú tài I còn được dùng để tuyển nhân sự cho một số học viện như Học viện Cảnh sát Quốc gia, hoặc trường cao đẳng như Trường Cao đẳng Công chánh. Việc thi cử thường tổ chức thành hai đợt để ai hỏng đợt 1 có thể dự thi đợt 2. Nam giới ai hỏng thi Tú tài I phải trình diện nhập ngũ quân đội đi quân dịch hai năm hoặc vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang; đậu thì vào Trường Bộ binh Thủ Đức.
Tú tài II thi vào cuối năm lớp 12. Tú tài II, tức Tú tài toàn phần cũng có hai phần: phần viết và phần vấn đáp như Tú tài I. Sinh viên tuyển vào bậc đại học phải hội đủ điều kiện là đậu được bằng Tú tài II.
Tú Tài I.B.M.
Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.
Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.
Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ.” Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “học gạo.”
Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.
Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng, v.v...
Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.
Câu chuyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay một chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.
Chế độ giáo dục mới giống loài tôm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.
Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào lớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?
Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.
Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này:
“Sài Gòn ‒ Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vừa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến.”
(Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748).
Bài trước giới thiệu cho độc giả về phương thức Khảo thí mộc mạc đơn sơ của 4 kỳ thi Tú tài trong hoàn cảnh thời chiến. Là con người không tránh khỏi những sai lầm và đã xảy ra những vụ bê bối. Xin giới thiệu phần cuối trong bài bài biên khảo của tác giả Nguyễn Văn Lục về chế độ thi cử trước 1975.
Xem phần I ở đây
Xem phần II ở đây
Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam
Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra để chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời Đệ Nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường ‒ do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền ‒ Và chuyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.
– Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.
– Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Petrus Trương Vĩnh Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả về sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.
Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.
Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết.” Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như rụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?
Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra ‒ thời nào cũng có- và điều đó không có gì lạ.
Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phêrô lừng lững vào Thiên Đàng?
Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết:
“Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bác Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn.
(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)
Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.
(Hết)
Phụ lục: Tú tài I và Tú tài II
Danh từ Tú tài I và Tú tài II lần đầu tiên được dùng ở Việt Nam vào thời Pháp thuộc. Tháng Tám năm 1928 Nha học chính Đông Dương mở kỳ thi Tú tài I đầu tiên. Sang năm sau vào Tháng Chín 1929 thì tổ chức kỳ thi Tú tài II. Lúc bấy giờ bằng Tú tài I và II lấy mẫu từ bằng Baccalauréat Première Partie và Deuxième Partie của Pháp, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ trong trường học. Năm 1945 vua Bảo Đại ra đạo dụ dùng chữ Quốc ngữ trong kỳ thi Tú tài nhưng phải đợi đến thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam tiếng Việt mới được đưa vào làm ngôn ngữ chính.
Khi đất nước Việt Nam chia đôi thành Việt Nam Cộng hòa ở phía nam vĩ tuyến 17 và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở phía bắc thì danh từ Tú tài bị bỏ hẳn ở ngoài Bắc, thay vào đó là tên "bằng tốt nghiệp cấp III". Ở Miền Nam thì tiếp tục dùng Tú tài I và II là hai đợt thi tuyển quan trọng ở bậc trung học.
Học sinh sắp xong lớp 11 phải thi Tú tài I (còn gọi là Tú tài bán phần) để lên lớp 12. Kỳ thi Tú tài I có phần viết và phần vấn đáp. Phần vấn đáp bị loại bỏ năm 1968. Văn bằng Tú tài I còn được dùng để tuyển nhân sự cho một số học viện như Học viện Cảnh sát Quốc gia, hoặc trường cao đẳng như Trường Cao đẳng Công chánh. Việc thi cử thường tổ chức thành hai đợt để ai hỏng đợt 1 có thể dự thi đợt 2. Nam giới ai hỏng thi Tú tài I phải trình diện nhập ngũ quân đội đi quân dịch hai năm hoặc vào trường hạ sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang; đậu thì vào Trường Bộ binh Thủ Đức.
Tú tài II thi vào cuối năm lớp 12. Tú tài II, tức Tú tài toàn phần cũng có hai phần: phần viết và phần vấn đáp như Tú tài I. Sinh viên tuyển vào bậc đại học phải hội đủ điều kiện là đậu được bằng Tú tài II.
Tú Tài I.B.M.
Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.
Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.
Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ.” Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “học gạo.”
Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.
Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng, v.v...
Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.
Câu chuyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay một chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.
Chế độ giáo dục mới giống loài tôm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.
Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào lớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?
Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.
Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này:
“Sài Gòn ‒ Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vừa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến.”
(Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748).
Wednesday, June 22, 2011
Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975 (II)
Nguyễn Văn Lục
Mỗi mùa thi tốt nghiệp PTTH hiện tượng phổ biến là lộ đề thi hoặc là những tin đồn về việc lộ đề thi. Phần (I) giới thiệu lịch sử các kỳ thi và kết quả không phải là cao. Xin giới thiệu phần tiếp theo bài biên khảo của tác giả Nguyễn Văn Lục về chế độ khảo thí thi cử trước 1975.
Xem phần I ở đây
Xem phần kết ở đây
Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có lề nếp là yếu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị, Hội đồng giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ; lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.
Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.
Tổ chức ấy được tiến hành như sau:
Nha Khảo Thí
Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi Trung học Phổ thông và 4 lần thi Tú tài 1 và Tú tài 2. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và Giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Vì Sài Gòn là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, NhaTrang, Cần Thơ, v.v… Hội Đồng Giám Thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, v.v... Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.
Bộ phận quan trọng của Nha Khảo Thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm chót lót trên lầu 3 của Nha Khảo Thí. Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời, v.v... Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.
Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì rồi niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người. Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy. Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.
Các Hội Đồng Thi
Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.
Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ (Quốc gia) giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buộc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.
Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?
Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.
Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.
1. Hội Đồng Giám Thị
Công việc của Hội Đồng Giám Thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá, v.v... Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó. Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.
Ban Chủ tịch Hội Đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học ‒ Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác ‒ giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.
Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.
Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.
Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.
Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.
Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò các giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.
Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.
Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài. Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng Giám Khảo.
Công việc của Hội Đồng Giám Thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xâp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.
2. Hội đồng giám khảo
Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.
Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.
Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.
Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai. Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.
Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.
Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.
Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau tết Mậu Thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo được dán lên. Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.
Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.
Thi cử chặt chẽ, tốt đẹp và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.
Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin xỏ hay hối lộ.
Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.
Tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đã đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.
Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.
Miền Nam có thể thua miền Bắc do để mất miền Nam. Nhưng nền giáo dục ở miền Nam dù còn chập chững thiếu sót mà thực tế ngày nay cho thấy vượt trội rất xa miền Bắc cộng sản cả về chất lượng đào tạo và phẩm chất đạo đức.
Vậy mà họ dám viết phê phán nền giáo dục của VNCH như sau:
“Mỹ và chính quyền Sài Gòn cố gắng kết hợp mọi Triết học cũ xưa với Triết học mới nhất nhồi nhét những thế hệ thanh thiếu niên “lý tưởng quốc gia” giả hiệu, “thế giới tự do”, làm cho họ chạy theo lối sống thực dụng, hoặc sợ hãi sức mạnh nước ngoài, rồi bi quan, yếm thế, an phận.”
(Trích Địa chí văn hóa... trang 768).
Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.
Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại hải ngoại. (Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997).
Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997).
Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.
Từ Hiệp đinh Geneva 1954, người dân miền Nam Việt Nam lo ổn định cuộc sống, trẻ em nô nức đến trường, phụ huynh ước mong con em học hành thành đạt để thoát khỏi cảnh nghèo dốt. Có sự bùng nổ của ngành Quốc gia Giáo dục, với phương tiện eo hẹp, chính quyền VNCH đã cố gắng đáp ứng nhu cầu học tập của giới trẻ. Buổi đầu ưu tiên tiểu học và trung học. Về sau bậc trung học tác động mạnh lên đại học.
Ngoài số thanh niên tốt nghiệp trung học mặc chiến y, một số khác được hoãn dịch vì lý do học vấn tiếp tục học lên đại học.
Một miền đất nước với gần 20 triệu dân trong hoàn cảnh chiến tranh triền miên dữ dội mà xây dựng được một hệ thống giáo dục như thế, đào tạo được một đội ngũ trí thức tài giỏi là một điểm son của chính thể VNCH.
(Còn tiếp)
Mỗi mùa thi tốt nghiệp PTTH hiện tượng phổ biến là lộ đề thi hoặc là những tin đồn về việc lộ đề thi. Phần (I) giới thiệu lịch sử các kỳ thi và kết quả không phải là cao. Xin giới thiệu phần tiếp theo bài biên khảo của tác giả Nguyễn Văn Lục về chế độ khảo thí thi cử trước 1975.
Xem phần I ở đây
Xem phần kết ở đây
Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có lề nếp là yếu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị, Hội đồng giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ; lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.
Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.
Tổ chức ấy được tiến hành như sau:
Nha Khảo Thí
Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi Trung học Phổ thông và 4 lần thi Tú tài 1 và Tú tài 2. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và Giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Vì Sài Gòn là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, NhaTrang, Cần Thơ, v.v… Hội Đồng Giám Thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Hội An, Quảng Trị, v.v... Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.
Bộ phận quan trọng của Nha Khảo Thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm chót lót trên lầu 3 của Nha Khảo Thí. Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời, v.v... Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.
Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì rồi niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người. Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy. Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.
Các Hội Đồng Thi
Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.
Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ (Quốc gia) giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buộc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.
Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?
Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.
Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.
1. Hội Đồng Giám Thị
Công việc của Hội Đồng Giám Thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá, v.v... Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó. Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.
Ban Chủ tịch Hội Đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học ‒ Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác ‒ giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.
Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.
Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.
Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.
Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.
Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò các giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.
Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.
Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài. Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng Giám Khảo.
Công việc của Hội Đồng Giám Thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xâp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.
2. Hội đồng giám khảo
Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.
Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.
Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.
Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai. Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.
Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.
Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.
Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau tết Mậu Thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo được dán lên. Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.
Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.
Thi cử chặt chẽ, tốt đẹp và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.
Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin xỏ hay hối lộ.
Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.
Tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đã đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.
Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.
Miền Nam có thể thua miền Bắc do để mất miền Nam. Nhưng nền giáo dục ở miền Nam dù còn chập chững thiếu sót mà thực tế ngày nay cho thấy vượt trội rất xa miền Bắc cộng sản cả về chất lượng đào tạo và phẩm chất đạo đức.
Vậy mà họ dám viết phê phán nền giáo dục của VNCH như sau:
“Mỹ và chính quyền Sài Gòn cố gắng kết hợp mọi Triết học cũ xưa với Triết học mới nhất nhồi nhét những thế hệ thanh thiếu niên “lý tưởng quốc gia” giả hiệu, “thế giới tự do”, làm cho họ chạy theo lối sống thực dụng, hoặc sợ hãi sức mạnh nước ngoài, rồi bi quan, yếm thế, an phận.”
(Trích Địa chí văn hóa... trang 768).
Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.
Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại hải ngoại. (Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997).
Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997).
Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.
Từ Hiệp đinh Geneva 1954, người dân miền Nam Việt Nam lo ổn định cuộc sống, trẻ em nô nức đến trường, phụ huynh ước mong con em học hành thành đạt để thoát khỏi cảnh nghèo dốt. Có sự bùng nổ của ngành Quốc gia Giáo dục, với phương tiện eo hẹp, chính quyền VNCH đã cố gắng đáp ứng nhu cầu học tập của giới trẻ. Buổi đầu ưu tiên tiểu học và trung học. Về sau bậc trung học tác động mạnh lên đại học.
Ngoài số thanh niên tốt nghiệp trung học mặc chiến y, một số khác được hoãn dịch vì lý do học vấn tiếp tục học lên đại học.
Một miền đất nước với gần 20 triệu dân trong hoàn cảnh chiến tranh triền miên dữ dội mà xây dựng được một hệ thống giáo dục như thế, đào tạo được một đội ngũ trí thức tài giỏi là một điểm son của chính thể VNCH.
(Còn tiếp)
Sunday, June 19, 2011
Nhìn lại việc thi tú tài ở Việt Nam trước 1975 (I)
Nguyễn Văn Lục
Mùa thi tốt nghiệp PTTH những năm gần đây tỷ lệ học sinh tốt nghiệp được đặt ra như là chất lượng của nền giáo dục hơn là thành quả của học trò. Xin giới thiệu bài biên khảo của tác giả Nguyễn Văn Lục về chế độ thi cử trước 1975.
Xem tiếp phần II ở đây
Xem tiếp phần kết ở đây
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy.Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.
Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau:
“Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa.”
(Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82).
Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:
Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông:
“Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quỳ thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.”
(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65).
Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955).
May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.
Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội).
Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.
Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước.
“Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”
(Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLT) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí).
Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?
Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bât cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.
Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận (không phải nhạc sĩ Đỗ Nhuận) viết vào năm 1484:
“Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.”
(LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).
Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.
Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.
Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng li từng tí việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám.Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ:
“Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào.”
(Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - Bộ Lễ - Q.192: Học Hiệu).
Thât ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ thông dành cho các lớp đệ tứ và thi tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trương chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học sư phạm, các trường Kỹ sư (Phú Thọ) Điện, Công chánh, v.v...
Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.
Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.
Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp ban B, trường Petrus Trương Vĩnh Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng, đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách với một tổ chức phi lợi nhuận.
Việc học còn từ chương
Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết:
“Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy... Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc...”
(Trích Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo, Trương Bá Cần, trang 76, NXB Tp. HCM, 1988).
Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.
Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cùng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì Vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.
Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.
Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.
Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc:
“Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo.”
(Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên).
Đại NamThực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.
Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.
Thi cử lấy đỗ khá khắt khe.
Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.
Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.
Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học.
(Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)
Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không phải điểm số nào anh cũng đạt trung bình (tác giả viết nhầm, không có điểm số nào anh đạt trung bình). Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!
Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức)
Ông nhận xét như sau:
“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
(Trích “Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại”, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, trang 279-281)
Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tống thật hơi lạ.
“Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.”
(Trích như trên)
Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.
Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vậy. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không lẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ (Quốc gia) Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.
Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn:
“N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un discours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais” alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures...” (Trích “Le grand mensonge de l’éducation”, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12).
Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp,” vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.
Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp Văn, Anh Văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm. Sau đó cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cũng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiều khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?
Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand, v.v... Sinh ngữ 2 là anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh Văn làm sinh ngữ một.
Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh Văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu!!! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.
Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ Chưa Ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?
Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết:
“Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài,” chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.” Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt.”
(Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228).
Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo qua. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.
Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.
Một vài nhận xét
Tú tài Việt
Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.
■ Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950.
■ Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.
■ Tỉ lệ tú tài 1: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ 1 là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.
■ Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.
■ Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài 1. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài 1. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài 2, khóa hai cũng rất cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.
■ Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.
■ Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.
Tú tài Pháp
■ Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại trường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?
■ So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Phảp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.
Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.
Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo.
Xem tiếp phần II ở đây
(Còn tiếp)
Mùa thi tốt nghiệp PTTH những năm gần đây tỷ lệ học sinh tốt nghiệp được đặt ra như là chất lượng của nền giáo dục hơn là thành quả của học trò. Xin giới thiệu bài biên khảo của tác giả Nguyễn Văn Lục về chế độ thi cử trước 1975.
Xem tiếp phần II ở đây
Xem tiếp phần kết ở đây
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy.Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.
Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau:
“Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa.”
(Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82).
thí sinh phải tự làm lều và đặt chõng để viết bài
Nguồn: nguyentl.free.fr
Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:
Ân sâu nghĩa nặng tình dài Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?
Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông:
“Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quỳ thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.”
(Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65).
Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955).
May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.
Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội).
Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.
Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước.
“Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”
(Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLT) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí).
Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?
Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bât cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.
Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận (không phải nhạc sĩ Đỗ Nhuận) viết vào năm 1484:
“Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.”
(LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).
Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.
Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.
Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng li từng tí việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám.Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ:
“Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào.”
(Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - Bộ Lễ - Q.192: Học Hiệu).
Thât ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ thông dành cho các lớp đệ tứ và thi tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trương chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học sư phạm, các trường Kỹ sư (Phú Thọ) Điện, Công chánh, v.v...
Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.
Nguồn: DCVOnline
Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.
Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp ban B, trường Petrus Trương Vĩnh Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng, đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách với một tổ chức phi lợi nhuận.
Việc học còn từ chương
Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết:
“Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy... Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc...”
(Trích Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo, Trương Bá Cần, trang 76, NXB Tp. HCM, 1988).
Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.
Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cùng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì Vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.
Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.
Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.
Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc:
“Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo.”
(Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên).
Đại NamThực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.
Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.
Thi cử lấy đỗ khá khắt khe.
Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.
Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.
Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học.
(Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)
Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không phải điểm số nào anh cũng đạt trung bình (tác giả viết nhầm, không có điểm số nào anh đạt trung bình). Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!
Nguồn: NVL
Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức)
Ông nhận xét như sau:
“Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.
(Trích “Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại”, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, trang 279-281)
Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tống thật hơi lạ.
“Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.”
(Trích như trên)
Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.
Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vậy. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không lẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ (Quốc gia) Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.
Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn:
“N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un discours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais” alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures...” (Trích “Le grand mensonge de l’éducation”, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12).
Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp,” vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.
Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp Văn, Anh Văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm. Sau đó cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cũng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiều khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?
Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand, v.v... Sinh ngữ 2 là anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh Văn làm sinh ngữ một.
Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh Văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu!!! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.
Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ Chưa Ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?
Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết:
“Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài,” chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.” Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt.”
(Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228).
Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo qua. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.
Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.
Bảng 1: Kết quả kỳ thi tú tài I và 2,
chương trình giáo dục Việt Nam 1953-1954, Sài Gòn-Nam Bộ
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130
chương trình giáo dục Việt Nam 1953-1954, Sài Gòn-Nam Bộ
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130
Bảng 2: Kết quả kỳ thi tú tài 1 và 2 chương trình Pháp 1954-1955
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang 126-130
Một vài nhận xét
Tú tài Việt
Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.
■ Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950.
■ Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.
■ Tỉ lệ tú tài 1: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ 1 là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.
■ Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.
■ Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài 1. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài 1. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài 2, khóa hai cũng rất cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.
■ Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.
■ Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.
Tú tài Pháp
■ Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại trường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?
■ So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Phảp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.
Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.
Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo.
Xem tiếp phần II ở đây
(Còn tiếp)
Friday, June 17, 2011
Quốc tang Yên Bái (*) 17 tháng 6
Ngày này cách nay 81 năm, sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930 thực dân Pháp đem thi hành án Nguyễn Thái Học Đảng trưởng Quốc Dân Đảng, phát động Khởi nghĩa Yên Bái cùng 12 đồng chí của ông là:
Bùi Tử Toàn
Bùi Văn Chuẩn
Nguyễn Ân
Hà Văn Lao
Đào Văn Nhít
Ngô Văn Du
Nguyễn Đức Thịnh
Nguyễn Văn Tiềm
Đỗ Văn Sứ
Bùi Văn Cửu
Nguyễn Như Liên
Phó Đức Chính
Trong đó có những người trẻ như Nguyễn Như Liên (bí danh Ngọc Tỉnh) 20 tuổi đang là học sinh; Hà Văn Lao 25 tuổi làm thợ hồ; Bùi Tử Đoàn 37 tuổi là nông dân. Phó đảng trưởng Phó Đức Chính (cháu nội là nhạc sĩ Phó Đức Phương) yêu cầu được nằm ngửa khi bị hành quyết để xem lưỡi dao máy chém tàn ác thế nào.
Cuộc khởi nghĩa được tiến hành vào sáng sớm 10 tháng 2 năm 1930 mau chóng bị thất bại. Do phương tiện thông tin liên lạc còn thô sơ, không còn đủ thời gian thu hồi lệnh nên cuộc khởi nghĩa bị động tiến hành theo dự định. Một nguyên nhân có thể là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại có thể là từ những đồng hương hiểm ác.
Trước đó năm 1929 một số đảng viên VN QDĐ được cử qua Xiêm (Siam, Thái ngày nay) để mua vũ khí. Nhóm này đã liên hệ với những nhóm đồng hương khác đang hoạt động cách mạng trên đất Xiêm, để nắm thông tin về các mối cung cấp. Nhóm VN QDĐ này gồm các ông Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Văn Tiềm và Hồ Văn Mịch đã bị Pháp bắt ngay khi trở về nước. Các ông này bị xử tù chung thân và bị đày đi Côn Đảo.
Việc mật thám Pháp biết rõ về hành tung của những người này bên Xiêm là một nghi vấn về liên hệ giữa mật thám Pháp với những đồng hương người Việt đang hoạt động trên đất Xiêm lúc đó.
***
(*) Trong các văn bản trước đây người ta hay viết Yên Báy, cách viết này không đúng do lẽ văn bản Pháp văn viết là Yen Bay để phù hợp với lối phát âm của người Pháp. Tương tự đó là Hồng Gai (Hon Gay), Lào Cai (Lao Kay), Mã lai (Malay)
Wednesday, June 15, 2011
Biển Đông, chuyện nội bộ của hai nước XHCN anh em
Giữa lúc kinh tế khó khăn, lạm phát phi mã, đời sống người lao động khó khăn, BĐS đóng băng, thiếu vốn, lãi suất cao, nợ xấu ngân hàng cao chưa từng có trong lịch sử thì phát sinh cái gọi là "sự kiện cắt cáp". Xin lưu ý là sự kiện "cắt cáp" diễn ra ở tít ngoài biển khơi, nơi mà ở đó sản lượng khai thác dầu không ai có thể biết được.
Tiếp theo là Hội nghị quân sự hàng niên diễn ra tại khách sạn Shangri-La, các nước lớn nước bé tuyên bố vung vít về yêu chuộng hòa bình, người không động đến ta thì ta không động đến người. Tiếp sau đó là "cắt cáp" lại diễn ra tiếp tục, một bên phản đối bên kia phá hoại, bên nọ phản đối bên này vi phạm "nhận thức chung" của lãnh đạo. Thế giới thông tin tưởng dễ dàng nắm bắt qua cái monitor 14" vậy mà không phải, không ai có thể biết được sự thật trừ những người biết mà những người thực sự biết lại không nói.
Có vẻ như một chiến dịch báo chí được viết ra chỉ để dành cho người Việt đọc. Tóm lược những tin bài xoay quanh các nội dung: TQ vi phạm đặc quyền kinh tế, nền kinh tế TQ không ổn định sắp sụp đổ, VN chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh tuy rằng không muốn. Phong trào phản kháng sự bất công của TQ bởi những người vô danh (biểu tình, tụ tập đông người không xin phép), hoặc là những cán bộ có kinh nghiệm đối ngoại với TQ nhưng đã về hưu như các cụ DDD, NTV, ĐSN, hoặc là những cán bộ giảng dạy biến chất ở nước ngoài như TS Khương, hoặc những hội quần chúng như Hội Khoan, Hội Dầu,
Yếu tố nước ngoài nhân cơ hội này đục nước béo cò, đó là Đài Loan nhận một phần hay tất cả các hải đảo ở Biển Đông, đó là con hổ giấy Hoa Kỳ không có liên quan địa chính trị nhưng đòi quyền lưu thông hàng hải bất kể dân sự hay quân sự, đó là những xứ trong lục địa không có bờ biển như Lào hay xứ không có bờ biển liên hệ như Miến cũng có chân tham gia vào việc bỏ phiếu chủ quyền biển.
Riêng con hổ giấy Mỹ, cường quốc hải quân trong quá khứ, với gánh nặng nợ nần và PPP đầu người đứng thứ nhì thế giới sau TQ, phải vét những đồng xu rỉ cuối cùng trong ngân sách để hành quân đến Biển Đông. Báo chí đang hướng dư luận đến sự ủng hộ từ phía Mỹ, một kẻ thù chiến lược của VN được ghi trong Hiến pháp 1980 bên cạnh TQ với tư cách là kẻ thù Trước mắt trực tiếp nguy hiểm. Chuyện như đùa: Tìm kiếm sự ủng hộ từ Kẻ thù Chiến lược Lâu dài để chống lại Kẻ thù Trước mắt Trực tiếp Nguy hiểm. Chuyện vô lý nghĩa là nó sẽ không thể xảy ra.
***
Thời sự đáng quan tâm
Nợ xấu của các ngân hàng VN chiếm 13% tổng dự nợ. Ai có tiền ký thác ở ngân hàng hãy mau rút về, bảo hiểm tiền gửi "tối đa" là 50 triệu đồng cả vốn lẫn lãi là con số tham khảo.
Các chuyên gia tài chính tiền tệ đang vắt óc ra nghĩ cách làm thế nào "Huy động" hơn 1000 tấn vàng tiết kiệm trong dân. Vàng khác với tiền ở chỗ là trương chủ phải đáo hạn mới được rút hay nói cách khác là hoàn toàn mất quyền sở hữu trước khi đáo hạn. Cho nên không vì giám đốc hay chủ tịch ngân hàng bỏ trốn mà tới khiếu nại, mọi việc đáo hạn mới giải quyết.
Tiếp theo là Hội nghị quân sự hàng niên diễn ra tại khách sạn Shangri-La, các nước lớn nước bé tuyên bố vung vít về yêu chuộng hòa bình, người không động đến ta thì ta không động đến người. Tiếp sau đó là "cắt cáp" lại diễn ra tiếp tục, một bên phản đối bên kia phá hoại, bên nọ phản đối bên này vi phạm "nhận thức chung" của lãnh đạo. Thế giới thông tin tưởng dễ dàng nắm bắt qua cái monitor 14" vậy mà không phải, không ai có thể biết được sự thật trừ những người biết mà những người thực sự biết lại không nói.
Có vẻ như một chiến dịch báo chí được viết ra chỉ để dành cho người Việt đọc. Tóm lược những tin bài xoay quanh các nội dung: TQ vi phạm đặc quyền kinh tế, nền kinh tế TQ không ổn định sắp sụp đổ, VN chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh tuy rằng không muốn. Phong trào phản kháng sự bất công của TQ bởi những người vô danh (biểu tình, tụ tập đông người không xin phép), hoặc là những cán bộ có kinh nghiệm đối ngoại với TQ nhưng đã về hưu như các cụ DDD, NTV, ĐSN, hoặc là những cán bộ giảng dạy biến chất ở nước ngoài như TS Khương, hoặc những hội quần chúng như Hội Khoan, Hội Dầu,
Yếu tố nước ngoài nhân cơ hội này đục nước béo cò, đó là Đài Loan nhận một phần hay tất cả các hải đảo ở Biển Đông, đó là con hổ giấy Hoa Kỳ không có liên quan địa chính trị nhưng đòi quyền lưu thông hàng hải bất kể dân sự hay quân sự, đó là những xứ trong lục địa không có bờ biển như Lào hay xứ không có bờ biển liên hệ như Miến cũng có chân tham gia vào việc bỏ phiếu chủ quyền biển.
Riêng con hổ giấy Mỹ, cường quốc hải quân trong quá khứ, với gánh nặng nợ nần và PPP đầu người đứng thứ nhì thế giới sau TQ, phải vét những đồng xu rỉ cuối cùng trong ngân sách để hành quân đến Biển Đông. Báo chí đang hướng dư luận đến sự ủng hộ từ phía Mỹ, một kẻ thù chiến lược của VN được ghi trong Hiến pháp 1980 bên cạnh TQ với tư cách là kẻ thù Trước mắt trực tiếp nguy hiểm. Chuyện như đùa: Tìm kiếm sự ủng hộ từ Kẻ thù Chiến lược Lâu dài để chống lại Kẻ thù Trước mắt Trực tiếp Nguy hiểm. Chuyện vô lý nghĩa là nó sẽ không thể xảy ra.
***
Thời sự đáng quan tâm
Nợ xấu của các ngân hàng VN chiếm 13% tổng dự nợ. Ai có tiền ký thác ở ngân hàng hãy mau rút về, bảo hiểm tiền gửi "tối đa" là 50 triệu đồng cả vốn lẫn lãi là con số tham khảo.
Các chuyên gia tài chính tiền tệ đang vắt óc ra nghĩ cách làm thế nào "Huy động" hơn 1000 tấn vàng tiết kiệm trong dân. Vàng khác với tiền ở chỗ là trương chủ phải đáo hạn mới được rút hay nói cách khác là hoàn toàn mất quyền sở hữu trước khi đáo hạn. Cho nên không vì giám đốc hay chủ tịch ngân hàng bỏ trốn mà tới khiếu nại, mọi việc đáo hạn mới giải quyết.
Sunday, June 12, 2011
Đôi nét về bác sĩ Phillips Rosler
Philips Rosler (PR) chỉ biết mình gốc Việt nhưng không biết cha mẹ là ai, được nuôi dưỡng trong một cô nhi viện Công giáo. Cho đến khi được 9 tháng tuổi, được một cặp người Đức đã có 2 con gái nhận nuôi. Ông sống với cha nuôi là một bác sĩ quân y, và theo cha trên khắp các nẻo đường chinh chiến. Ông lớn lên tại những nơi cha đóng quân là Humberg, Buckeburg và Hanover.
Ông gia nhập quân đội và nguyện nối nghiệp cha theo ngành quân y. PR được tạm xuất ngũ để theo học Y khoa Hanover, 1999 thực tập và tốt nghiệp tại Viên quân y Hanover, Tiến sĩ Y khoa năm 2002. Sau 16 năm phục vụ trong quân đội, PR xuất ngũ làm bác sỹ chuyên khoa giải phẫu tim.
Năm 1992 PR tham gia đảng Dân chủ Tự do (FDP). 2000 đến 2004 làm Bí thư FDP tại Hạ Saxony. Năm 2005 PR trúng cử vào Trung ương FDP với 95% phiếu, thành tích cao nhất của đảng này. Tháng 3 năm 2006 PR trúng cử chức chủ tịch FDP Hạ Saxony với 94.6% phiếu.
Tháng 2 năm 2008 PR được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, phó Thủ hiến tiểu bang Hạ Saxony. Tháng 10 năm 2009 được cử làm Bộ trưởng Y tế Liên bang trong nội các Merkel. Tháng 5 năm 2011 PR được bầu làm chủ tịch FDP, bộ trưởng Kinh - Kỹ liên bang kiêm phó thủ tướng Đức quốc.
Là chính trị gia người Đức, PR thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại Đức. Trước buổi lễ khánh thành đài tưởng niệm VN tại Hamburg, PR chịu sức ép từ nhiều phía trong đó có tòa đại sứ CHXHCN VN, khuyến cáo ông đừng tham gia vì đụng chạm chính trị. Ông trả lời ông đến đó vì lý do chính trị.
Ông gia nhập quân đội và nguyện nối nghiệp cha theo ngành quân y. PR được tạm xuất ngũ để theo học Y khoa Hanover, 1999 thực tập và tốt nghiệp tại Viên quân y Hanover, Tiến sĩ Y khoa năm 2002. Sau 16 năm phục vụ trong quân đội, PR xuất ngũ làm bác sỹ chuyên khoa giải phẫu tim.
Năm 1992 PR tham gia đảng Dân chủ Tự do (FDP). 2000 đến 2004 làm Bí thư FDP tại Hạ Saxony. Năm 2005 PR trúng cử vào Trung ương FDP với 95% phiếu, thành tích cao nhất của đảng này. Tháng 3 năm 2006 PR trúng cử chức chủ tịch FDP Hạ Saxony với 94.6% phiếu.
Tháng 2 năm 2008 PR được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, phó Thủ hiến tiểu bang Hạ Saxony. Tháng 10 năm 2009 được cử làm Bộ trưởng Y tế Liên bang trong nội các Merkel. Tháng 5 năm 2011 PR được bầu làm chủ tịch FDP, bộ trưởng Kinh - Kỹ liên bang kiêm phó thủ tướng Đức quốc.
Là chính trị gia người Đức, PR thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng người Việt tại Đức. Trước buổi lễ khánh thành đài tưởng niệm VN tại Hamburg, PR chịu sức ép từ nhiều phía trong đó có tòa đại sứ CHXHCN VN, khuyến cáo ông đừng tham gia vì đụng chạm chính trị. Ông trả lời ông đến đó vì lý do chính trị.
Friday, June 10, 2011
Những cái miệng có gang có thép nói gì
Bộ trưởng Quốc phòng của Cường quốc II Lương Quang Liệt nói rằng TQ không có tham vọng làm chủ biển Đông, Bắc Kinh luôn luôn mong mỏi và kiến tạo hòa bình cho khu vực này. Nhiều người cho rằng với mức tăng trưởng kinh tế hiện có, TQ là mối đe dọa quân sự với các nước lân bang và cho cả khu vực. Bắc Kinh không có tham vọng và tìm kiếm bá quyền và đe dọa các nước khác. Tuy nhiên TQ yêu cầu cộng đồng Quốc tế phải tôn trọng những quyết định của chính quyền Bắc Kinh, cảnh cáo những nước nào tham gia vào liên minh chống lại TQ. TQ đã thiết lập trao đổi đối thoại và an ninh với 22 nước trong đó có Hoa Kỳ, có trao đổi hoạt động quân sự với 150 nước.
Quốc vụ khanh bộ Quốc phòng sắp mãn nhiệm R. Gates tuyên bố đại ý: Vì lý do kinh tế và thương mại, quyền lợi nước Mỹ luôn gắn với sự tự do và an toàn giao thông trên mặt biển. Có nguy cơ nổ ra một xung đột quân sự trên Biển Đông nếu như các nước trong vùng không đạt được một cơ cấu đa phương, để giải quyết ôn hòa các vụ tranh chấp lãnh hải. HK sẽ duy trì sự hiện diện hùng hậu tại Á châu bằng các loại vũ khí mới để bảo vệ đồng minh và các tuyến giao thông hàng hải quốc tế. Các loại vũ khí này nhằm đáp ứng nhanh chóng và hữu hiệu với những phương tiện công nghệ và vũ khí có thể được sử dụng trong tương lai nhằm ngăn chặn quân lực Mỹ đi vào các tuyền giao thông hàng hải quốc tế then chốt.
Về cuộc gặp giữa hai bộ trưởng họ Phùng và họ Lương,
Theo Vienamnet: Bộ trưởng Quốc phòng VN đề nghị các cơ quan cấp dưới của cả 2 bên chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của lãnh đạo hai nước. Bình tĩnh giải quyết thông qua đàm phán dựa trên luật pháp quốc tế. Bộ trưởng Quốc phòng TQ sẵn sàng thảo luận ở các diễn đàn đa phương, phản đối các hành động đơn phương, cam kết duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
China daily: Bộ trưởng Quốc phòng VN ủng hộ giải quyết tranh chấp trên Biển Đông thông qua đối thoại song phương, không có sự can thiệp của bên thứ ba. Khẳng định 4 tốt láng giềng tốt, đối tác tốt, bạn tốt, đồng chí tốt.
Theo tờ Hoàn Cầu: vụ tàu BM2 nghiêm trọng nhất trong những năm gần đây thách thức lòng kiên nhẫn của TQ. Sự kiềm chế của TQ không phải là không có giới hạn.
Chả biết ai đáng tin hơn ai.
Quốc vụ khanh bộ Quốc phòng sắp mãn nhiệm R. Gates tuyên bố đại ý: Vì lý do kinh tế và thương mại, quyền lợi nước Mỹ luôn gắn với sự tự do và an toàn giao thông trên mặt biển. Có nguy cơ nổ ra một xung đột quân sự trên Biển Đông nếu như các nước trong vùng không đạt được một cơ cấu đa phương, để giải quyết ôn hòa các vụ tranh chấp lãnh hải. HK sẽ duy trì sự hiện diện hùng hậu tại Á châu bằng các loại vũ khí mới để bảo vệ đồng minh và các tuyến giao thông hàng hải quốc tế. Các loại vũ khí này nhằm đáp ứng nhanh chóng và hữu hiệu với những phương tiện công nghệ và vũ khí có thể được sử dụng trong tương lai nhằm ngăn chặn quân lực Mỹ đi vào các tuyền giao thông hàng hải quốc tế then chốt.
Về cuộc gặp giữa hai bộ trưởng họ Phùng và họ Lương,
Theo Vienamnet: Bộ trưởng Quốc phòng VN đề nghị các cơ quan cấp dưới của cả 2 bên chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của lãnh đạo hai nước. Bình tĩnh giải quyết thông qua đàm phán dựa trên luật pháp quốc tế. Bộ trưởng Quốc phòng TQ sẵn sàng thảo luận ở các diễn đàn đa phương, phản đối các hành động đơn phương, cam kết duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
China daily: Bộ trưởng Quốc phòng VN ủng hộ giải quyết tranh chấp trên Biển Đông thông qua đối thoại song phương, không có sự can thiệp của bên thứ ba. Khẳng định 4 tốt láng giềng tốt, đối tác tốt, bạn tốt, đồng chí tốt.
Theo tờ Hoàn Cầu: vụ tàu BM2 nghiêm trọng nhất trong những năm gần đây thách thức lòng kiên nhẫn của TQ. Sự kiềm chế của TQ không phải là không có giới hạn.
Chả biết ai đáng tin hơn ai.
Tuesday, June 7, 2011
Hãy là bạn, đừng kỳ thị E. Coli
Dịch tả ở Đức hạ tuần tháng 5 làm thiệt mạng gần 20 người. Nguyên nhân được xác định xưa như từ thời Trung cổ, đó là nhiễm khuẩn E. Coli (đọc là Ê Cô li, Mẽo đọc là I cô lai). Bài viết này không có ý múa rìu qua mắt thợ về vi trùng học nói chung và về chủng E Coli nói riêng.
Cứ mỗi độ ngập lụt, ta lại nghe dịch tễ ta thán, rằng nồng độ E. Coli là bao nhiêu bao nhiêu, nguy hiểm lắm, bà con ạ, hãy tránh xa nước ấy ra. Vậy E. Coli là cái gì mà ghê tởm như dịch hạch thế. Escherichia coli (đọc là E sơ ri ki a Cô li) thường được viết thân thương gần gũi hơn bằng E. Coli, là một loại vi khuẩn cần thiết cho sự tiêu hóa. Nó sống hòa bình trong ruột già chúng ta, hỗ trợ cho khâu cuối cùng của chuỗi tiêu hóa và giúp cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn từ bên ngoài. Và trên thực tế E. Coli luôn tồn tại chung với nước như hình với bóng, chỗ nào có nước, chỗ ấy có E. Coli.
Đáng tiếc là E. Coli chỉ tốt khi nó nằm ở trong ruột và không tốt tý nào khi nó nhập vô đường miệng. Để dễ hình dung Quân giải phóng TQ được xem là tốt với dân TQ nhưng độc hại đối với ngư dân VN. Thông thường một vài con E. Coli đi vào miệng sẽ được đáp ứng bởi hàng triệu con trong ruột và là chuyện hàng ngày trong hệ tiêu hóa của chúng ta, hình thành nên miễn dịch E. Coli. Các cụ ta không diễn giải bằng vi trùng học mà chỉ đơn giản là "ăn bẩn sống lâu".
Thời Trung cổ, nguồn nước sinh hoạt hay bị hòa lẫn với nguồn chất thải tiêu hóa, nôm na là phân lẫn với thức ăn, nước uống. Ngay từ thời La Mã người ta đã xây dựng hệ thống nước sạch nhằm cách ly với nước thải, hệ thống này tồn tại cho đến ngày nay, là điểm thu hút khách du lịch thăm Ý quốc.
Người Âu ngày nay tiếng là ở sạch, trong hệ thống nước của họ xem như không tồn tại E. Coli. Điều này có hại cho hệ miễn dịch của họ, E. coli trong ruột không thanh toán được E. coli từ bên ngoài xâm nhập. Thể hiện là người ở xứ "sạch sẽ" sang xứ "sống lâu" thường dễ bị đau bụng. Và dịch tả Đức quốc hạ tuần tháng 5 cũng là hậu quả của việc "ở sạch". Tuy Pháp quốc không có người chết vì dịch tả, nhưng số người nhập viện hay phải nằm bẹp ở nhà không ít.
Sự việc xảy ra đột ngột ngay tại xứ sở được coi là văn minh nhất địa cầu. Giới khoa học bị shock nên đổ thừa tại chủng khuẩn xứ nóng nực Nam Âu, xuất phát từ xứ bò Tây Ban Nha. Khoa giới ngụy biện rằng, chủng Entero hemorric E. coli ( viết tắt là EHEC) dịch word by word nghĩa là xuất huyết ruột, có trong phân bò là nguyên nhân. Họ phân tích rằng EHEC là nguyên nhân gây ra Hội chứng suy thận cấp (dịch từ hemolytic-uremic syndrome) gây ra đột tử do vỡ hồng huyết cầu thận. Họ cho rằng dịch tả Âu châu hôm nay do rau tươi nhiểm khuẩn này không dưa chuột thì giá sống.
Số nạn nhân tại Đức quốc là những người lớn, trưởng thành và còn trẻ, không có đối tượng trẻ em và người già. Chứng tỏ những người trẻ đi ăn hàng ăn rau sống như dưa leo hay giá sống là những người mắc phải. Người già và trẻ em, ăn ở nhà và thức ăn nấu chín không bị mắc phải. E. coli dễ dàng bị chết ở nhiệt độ 70 độ C, phương pháp thanh trùng pasteur hoàn toàn có thể loại trừ.
Cứ mỗi độ ngập lụt, ta lại nghe dịch tễ ta thán, rằng nồng độ E. Coli là bao nhiêu bao nhiêu, nguy hiểm lắm, bà con ạ, hãy tránh xa nước ấy ra. Vậy E. Coli là cái gì mà ghê tởm như dịch hạch thế. Escherichia coli (đọc là E sơ ri ki a Cô li) thường được viết thân thương gần gũi hơn bằng E. Coli, là một loại vi khuẩn cần thiết cho sự tiêu hóa. Nó sống hòa bình trong ruột già chúng ta, hỗ trợ cho khâu cuối cùng của chuỗi tiêu hóa và giúp cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn từ bên ngoài. Và trên thực tế E. Coli luôn tồn tại chung với nước như hình với bóng, chỗ nào có nước, chỗ ấy có E. Coli.
Đáng tiếc là E. Coli chỉ tốt khi nó nằm ở trong ruột và không tốt tý nào khi nó nhập vô đường miệng. Để dễ hình dung Quân giải phóng TQ được xem là tốt với dân TQ nhưng độc hại đối với ngư dân VN. Thông thường một vài con E. Coli đi vào miệng sẽ được đáp ứng bởi hàng triệu con trong ruột và là chuyện hàng ngày trong hệ tiêu hóa của chúng ta, hình thành nên miễn dịch E. Coli. Các cụ ta không diễn giải bằng vi trùng học mà chỉ đơn giản là "ăn bẩn sống lâu".
Thời Trung cổ, nguồn nước sinh hoạt hay bị hòa lẫn với nguồn chất thải tiêu hóa, nôm na là phân lẫn với thức ăn, nước uống. Ngay từ thời La Mã người ta đã xây dựng hệ thống nước sạch nhằm cách ly với nước thải, hệ thống này tồn tại cho đến ngày nay, là điểm thu hút khách du lịch thăm Ý quốc.
Người Âu ngày nay tiếng là ở sạch, trong hệ thống nước của họ xem như không tồn tại E. Coli. Điều này có hại cho hệ miễn dịch của họ, E. coli trong ruột không thanh toán được E. coli từ bên ngoài xâm nhập. Thể hiện là người ở xứ "sạch sẽ" sang xứ "sống lâu" thường dễ bị đau bụng. Và dịch tả Đức quốc hạ tuần tháng 5 cũng là hậu quả của việc "ở sạch". Tuy Pháp quốc không có người chết vì dịch tả, nhưng số người nhập viện hay phải nằm bẹp ở nhà không ít.
Sự việc xảy ra đột ngột ngay tại xứ sở được coi là văn minh nhất địa cầu. Giới khoa học bị shock nên đổ thừa tại chủng khuẩn xứ nóng nực Nam Âu, xuất phát từ xứ bò Tây Ban Nha. Khoa giới ngụy biện rằng, chủng Entero hemorric E. coli ( viết tắt là EHEC) dịch word by word nghĩa là xuất huyết ruột, có trong phân bò là nguyên nhân. Họ phân tích rằng EHEC là nguyên nhân gây ra Hội chứng suy thận cấp (dịch từ hemolytic-uremic syndrome) gây ra đột tử do vỡ hồng huyết cầu thận. Họ cho rằng dịch tả Âu châu hôm nay do rau tươi nhiểm khuẩn này không dưa chuột thì giá sống.
Số nạn nhân tại Đức quốc là những người lớn, trưởng thành và còn trẻ, không có đối tượng trẻ em và người già. Chứng tỏ những người trẻ đi ăn hàng ăn rau sống như dưa leo hay giá sống là những người mắc phải. Người già và trẻ em, ăn ở nhà và thức ăn nấu chín không bị mắc phải. E. coli dễ dàng bị chết ở nhiệt độ 70 độ C, phương pháp thanh trùng pasteur hoàn toàn có thể loại trừ.
Saturday, June 4, 2011
Cần nâng cao nhận thức chính trị
Sự kiện 26/5 chưa biết thực hư ra sao, không có nguồn tin thứ hai ngoài TTXVN để kiểm chứng. Từ Hội nghị Shangri-La Bộ trưởng Lương Quang Liệt tuyên bố với Bộ trưởng Phùng Quang Thanh rằng Không có sự can dự của Hải quân Quân giải phóng TQ. Vậy là đã rõ, chủ trương của lãnh đạo cấp cao hai nước là nhất quán, không có chuyện xung đột.
Mấy ngày nay, khắp các trang mạng tiếng Việt nổi bật là các cuộc vận động netter đi biểu tình chống cái gì chưa rõ. Đáng chú ý là ngoài các nhà dân chủ giả hiệu còn có sự tham gia tích cực của một số công chức, phóng viên báo chí trong biên chế. Chúng tôi nhận thấy có những bất thường trong hoạt động này, cần cảnh báo để mọi người lưu ý.
Theo thông lệ những cuộc biểu tình mít tinh ủng hộ hay phản đối cái gì đó đều phải do một tổ chức đứng ra phát động, có xin phép nhà cầm quyền về nội dung và phạm vi hoạt động của cuộc tụ họp đông người đó. Tổ chức phát động đó phải có trách nhiệm bồi dưỡng vật chất cho những người biểu tình. Kinh phí dùng để bồi dưỡng tối thiểu phải tương đương với 1/2 ngày công lao động. Đó là điều kiện cần và đủ để triệu tập một cuộc tụ họp đông người không vì lợi ích cá nhân.
Khí đáp ứng đủ những điều kiện trên, những người tham gia phải cân nhắc những lựa chọn về lợi ích sau đây:
Đối với trẻ vị thành niên (dưới 18 tuổi) việc tham gia tụ tập với người lớn phải được cấm đoán.
Đối với sinh viên, các bạn có nguy cơ bị đuổi học và vĩnh viễn bị cấm dưới mái trường XHCN. Cánh cửa vào đời của các bạn bị khép lại. Với mảnh bằng cấp 3 các bạn chỉ có thể xin việc những vị trí phổ thông, lương thấp (nói chữ là Thân bại Danh liệt).
Với các vị hưu trí, khi tại chức các vị đã hoặc là tham nhũng nhiều rồi hoặc là đã từng bức hại người ngay. Bây giờ hoạt động của các vị hòng kiếm chác danh tiếng gì đây.
Với những người có công ăn việc làm ổn định, liệu những sự kiện vừa xảy ra có xâm hại đến lương bổng hay cơ hội tăng tiến của các bạn không. Việc ngưng công việc để tham gia tụ họp có xâm phạm đến tiến độ của doanh nghiệp không.
Với những công chức nhà nước, những phóng viên trong biên chế, công khai chỉ trích chính quyền, công khai vận động tụ họp đông người mà vẫn bảo toàn chức vụ, phải chăng họ được phân công để định hướng quần chúng. Hãy xem mục đích của những người thuộc thành phần này.
Nâng cao nhận thức chính trị là: Phải nhận thức được lợi ích của mỗi chúng ta khi định tham gia vào một sinh hoạt xã hội. Làm gì chúng ta cũng cần phải phân tích lợi hại để không bị những thành phần không rõ ràng lôi kéo để trục lợi từ những thông tin không thể kiểm chứng .
Mấy ngày nay, khắp các trang mạng tiếng Việt nổi bật là các cuộc vận động netter đi biểu tình chống cái gì chưa rõ. Đáng chú ý là ngoài các nhà dân chủ giả hiệu còn có sự tham gia tích cực của một số công chức, phóng viên báo chí trong biên chế. Chúng tôi nhận thấy có những bất thường trong hoạt động này, cần cảnh báo để mọi người lưu ý.
Theo thông lệ những cuộc biểu tình mít tinh ủng hộ hay phản đối cái gì đó đều phải do một tổ chức đứng ra phát động, có xin phép nhà cầm quyền về nội dung và phạm vi hoạt động của cuộc tụ họp đông người đó. Tổ chức phát động đó phải có trách nhiệm bồi dưỡng vật chất cho những người biểu tình. Kinh phí dùng để bồi dưỡng tối thiểu phải tương đương với 1/2 ngày công lao động. Đó là điều kiện cần và đủ để triệu tập một cuộc tụ họp đông người không vì lợi ích cá nhân.
Khí đáp ứng đủ những điều kiện trên, những người tham gia phải cân nhắc những lựa chọn về lợi ích sau đây:
Đối với trẻ vị thành niên (dưới 18 tuổi) việc tham gia tụ tập với người lớn phải được cấm đoán.
Đối với sinh viên, các bạn có nguy cơ bị đuổi học và vĩnh viễn bị cấm dưới mái trường XHCN. Cánh cửa vào đời của các bạn bị khép lại. Với mảnh bằng cấp 3 các bạn chỉ có thể xin việc những vị trí phổ thông, lương thấp (nói chữ là Thân bại Danh liệt).
Với các vị hưu trí, khi tại chức các vị đã hoặc là tham nhũng nhiều rồi hoặc là đã từng bức hại người ngay. Bây giờ hoạt động của các vị hòng kiếm chác danh tiếng gì đây.
Với những người có công ăn việc làm ổn định, liệu những sự kiện vừa xảy ra có xâm hại đến lương bổng hay cơ hội tăng tiến của các bạn không. Việc ngưng công việc để tham gia tụ họp có xâm phạm đến tiến độ của doanh nghiệp không.
Với những công chức nhà nước, những phóng viên trong biên chế, công khai chỉ trích chính quyền, công khai vận động tụ họp đông người mà vẫn bảo toàn chức vụ, phải chăng họ được phân công để định hướng quần chúng. Hãy xem mục đích của những người thuộc thành phần này.
Nâng cao nhận thức chính trị là: Phải nhận thức được lợi ích của mỗi chúng ta khi định tham gia vào một sinh hoạt xã hội. Làm gì chúng ta cũng cần phải phân tích lợi hại để không bị những thành phần không rõ ràng lôi kéo để trục lợi từ những thông tin không thể kiểm chứng .
Thursday, June 2, 2011
Kinh tế dầu khí ngoài khơi
Năm ngoái hãng dầu Anh quốc BP rút cổ phần trị giá 1.8 tỷ đô khỏi VN với lý do lấy tiền để bù lỗ cho rủi ro trên vịnh Mexico, nay đến lượt hãng Mỹ Conoco Phillips rao bán toàn bộ cổ phần của họ tại VN giá trị 1.5 tỷ đô của tác giả Thành Trung đăng trên cafef ngày 18/5/2011. Bài viết được đăng trước sự kiện va chạm giữa tàu Bình Minh 02 thuộc Liên doanh PVN - Talisman với Hải quân TQ sau đó một tuần lễ.
Conoco Phillips (COP) là đại gia dầu khí đứng hàng thứ 3 của nước Mỹ. Là đại công ty, việc mua hay bán phần hùn tại các mỏ trên thế giới là chuyện thường. Câu hỏi đặt ra là tại sao COP lại muốn rút phần hùn của họ giữa lúc giá dầu thế giới đang lên. Đối với COP đây có phải là hoạt động bình thường không hay là họ nhận thấy những điều khác thường.
Tác giả Thành Trung viết: Nguyên nhân dẫn đến quyết định của ConocoPhillips là hoạt động kinh doanh của Tập đoàn tại Việt Nam khá hạn chế và họ muốn dồn vốn cho những dự án khác lớn hơn - hết trích. Rủi ro mà những hãng khai thác dầu ngoài khơi gặp phải là:
1. Trữ lượng dầu không đủ đáp ứng chi phí đầu tư
2. Về an ninh bị đe dọa cản trở khai thác
Hai lý do trên không thuyết phục vì, một là Liên doanh TNK-BP do Nga hùn phần lớn ngỏ ý muốn mua lại phần hùn của COP. Hai là ConocoPhillips năm 2010 đóng thuế 46% trên lợi tức 11.4 tỷ đô của họ cho ngân khố Mỹ nên không dễ gì bị đe dọa từ một nơi nào trên địa cầu.
Là doanh nghiệp Mỹ, hẳn COP phải có những thông tin có giá trị cho những quyết định kinh doanh của họ từ Bộ Ngoại giao Mỹ, những giả thiết sau được đặt ra:
1. CP Mỹ quyết định không can thiệp vào tranh chấp Biển Đông nên không điều động lực lượng để bảo vệ quyền lợi Mỹ. Và thực tế xảy ra đúng như vậy, "Mỹ không đứng về bên nào trong một cuộc tranh chấp"
2. Phía Mỹ có thông tin về sự phân chia nguồn tài nguyên Biển Đông giữa VN và TQ. Vị trí địa lý những lô khai thác của COP nay đã thuộc về phía quyền lợi của TQ.
Người ngoài đã đánh giá tình hình và nhẹ nhàng cơ cấu lại. Chúng ta, những người trong cuộc lại sục sôi hùng hục nhắm mắt thiêu thân vào những cuộc tranh giành ngụy tạo mà quyền lợi thực sự của mỗi bên đã được phân chia.
Hãy lo cho kinh tế, đừng nghĩ đến chính trị. Phúc không vạ có.
Conoco Phillips (COP) là đại gia dầu khí đứng hàng thứ 3 của nước Mỹ. Là đại công ty, việc mua hay bán phần hùn tại các mỏ trên thế giới là chuyện thường. Câu hỏi đặt ra là tại sao COP lại muốn rút phần hùn của họ giữa lúc giá dầu thế giới đang lên. Đối với COP đây có phải là hoạt động bình thường không hay là họ nhận thấy những điều khác thường.
Tác giả Thành Trung viết: Nguyên nhân dẫn đến quyết định của ConocoPhillips là hoạt động kinh doanh của Tập đoàn tại Việt Nam khá hạn chế và họ muốn dồn vốn cho những dự án khác lớn hơn - hết trích. Rủi ro mà những hãng khai thác dầu ngoài khơi gặp phải là:
1. Trữ lượng dầu không đủ đáp ứng chi phí đầu tư
2. Về an ninh bị đe dọa cản trở khai thác
Hai lý do trên không thuyết phục vì, một là Liên doanh TNK-BP do Nga hùn phần lớn ngỏ ý muốn mua lại phần hùn của COP. Hai là ConocoPhillips năm 2010 đóng thuế 46% trên lợi tức 11.4 tỷ đô của họ cho ngân khố Mỹ nên không dễ gì bị đe dọa từ một nơi nào trên địa cầu.
Là doanh nghiệp Mỹ, hẳn COP phải có những thông tin có giá trị cho những quyết định kinh doanh của họ từ Bộ Ngoại giao Mỹ, những giả thiết sau được đặt ra:
1. CP Mỹ quyết định không can thiệp vào tranh chấp Biển Đông nên không điều động lực lượng để bảo vệ quyền lợi Mỹ. Và thực tế xảy ra đúng như vậy, "Mỹ không đứng về bên nào trong một cuộc tranh chấp"
2. Phía Mỹ có thông tin về sự phân chia nguồn tài nguyên Biển Đông giữa VN và TQ. Vị trí địa lý những lô khai thác của COP nay đã thuộc về phía quyền lợi của TQ.
Người ngoài đã đánh giá tình hình và nhẹ nhàng cơ cấu lại. Chúng ta, những người trong cuộc lại sục sôi hùng hục nhắm mắt thiêu thân vào những cuộc tranh giành ngụy tạo mà quyền lợi thực sự của mỗi bên đã được phân chia.
Hãy lo cho kinh tế, đừng nghĩ đến chính trị. Phúc không vạ có.