Nếu không đầu tư sản xuất, ai cũng cần phải bảo toàn đồng vốn của mình. Cách bảo toàn đó có thể là mua đất để đó, có thể mua chung cư rồi cho thuê, hoặc có thể gửi ngân hàng lấy lãi, và tiêu cực hơn là mua vàng hay đô la để dự trữ.
Mua nhà đất đòi hỏi phải có số vốn lớn, tối thiểu tương đương giá trị vài trăm lượng vàng, việc này không phải ai cũng làm được. Với số vốn ít hơn, người ta có thể mua chứng khoán hay gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, đầu tư chứng khoán ở một thị trường lành mạnh đòi hỏi thời gian hàng chục năm mới thấy khoản lợi tức đáng kể, còn lợi tức thực tế của việc gửi ngân hàng nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát . Giá vàng và giá đô tăng theo thời gian không phải giá trị của nó tăng mà do tiền đồng mất giá hay các nhà kinh tế gọi là lạm phát.
Gửi vàng hay đô đem lại một lãi suất rất thấp hoặc không có lãi, có cái lợi là tránh mất mát do hư hỏng hay bị mất cắp hay bị cướp. Nhưng rủi ro xảy ra có thể rất bất ngờ như là ngân hàng tuyên bố phá sản hoặc một quyết định không trả lại vốn bằng vàng từ ngân hàng nhà nước. Mua vàng hay đô rồi ký thác ngân hàng là một lựa chọn có thể nói là an toàn, loại trừ rủi ro của chính ngân hàng hoặc rủi ro chính sách.
Vậy có thể nói lượng vàng dự trữ trong dân đến từ những nguồn sau:
1. Tiền đã được rửa sạch, mua vàng để bảo tồn giá trị
2. Tiền từ việc thoái vốn khỏi BĐS
3. Từ tiền công lao động tích cóp được từng chỉ vàng một của người lao động
Trong đó loại (1) thường cất vàng ở nhà, loại (3) đem vàng gửi nhà băng, loại (2) phần lớn cất ở nhà chỉ một phần nhỏ gửi nhà băng.
Người dân gửi vàng ở nhà băng với kỳ vọng an toàn và được hoàn trả bằng vàng khi cần.
Về nguyên tắc, ngân hàng nhà nước cấm các ngân hàng thương mại bán số vàng huy động được. Ngân hàng thương mại chỉ được phép dùng số vàng đó để thế chấp vay vốn từ một nơi khác, có thể vay ngoại tệ từ nước ngoài.
Sở dĩ giá vàng trong nước cao hơn giá thế giới 4 triệu đồng mỗi lượng không phải do vàng khan hiếm mà giá đô la rẻ do được Ngân hàng Nhà nước "bình ổn", đem lại lợi nhuận "tự nhiên" cho doanh nghiệp được mua ngoại tệ. Nhưng sự việc cứ diễn ra như vậy làm giảm số ngoại tệ dự trữ mà NHNN mua gom được. Và giải pháp cho phép các ngân hàng thương mại được phép bán vàng được đặt ra và bổ sung một số ngân hàng được phép bán vàng.
Theo công bố trước đây hơn 10 tấn vàng đã được bán ra trong chiến dịch này nhưng số vàng quay lại gửi ngân hàng không tăng nên các ngân hàng buộc lòng phải đua nhau nâng lãi suất gửi vàng để huy động thêm những lượng vàng vừa tung ra thị trường. Vàng trong ngân hàng đem ra bán được gọi là "vàng bình ổn", tuy nhiên càng tung vàng ra bán giá vàng càng tăng mạnh.
Được bán vàng thu tiền mặt nhưng nợ xấu của ngân hàng vẫn gia tăng. Trước tình hình nguy cơ có nhiều doanh nghiệp có khả năng chấm dứt hoạt động như Dược Viễn Đông, Quốc hội dự thảo luật Vàng và USD không được bảo hiểm tiền gửi. Bà Kim Ngân còn mập mờ tuyên bố không có khả năng chi trả bảo hiểm tiền VND vì số vốn trong quỹ có hạn.

Ngân hàng ACB là con chim đầu đàn trong việc huy động hơn 100 tấn vàng của dân chúng. Một số liệu khác cho thấy số dư huy động vàng của ACB là 930ngàn lượng, vàng tồn quỹ chỉ còn 137ngàn lượng, tức đã bán ra 800 ngàn lượng tương đương 30 tấn, điều đó chỉ có thể là họ đã bán vàng từ trước, khi giá vàng còn rẻ. Như vậy, chỉ tính riêng ACB đã bán ra 85% số vàng huy động được.